Như trong Chương I đã đề cập, trên địa bàn Quảng Ngãi từng có
các lớp cư dân cổ sinh sống: cư dân Sa Huỳnh, cư dân Chămpa, kế đó
là cư dân Việt (Kinh) chiếm vị trí chủ đạo.
Người Kinh hiện diện ở Quảng Ngãi bắt đầu chủ yếu từ thế kỷ XV trở
đi, đa số là những nông dân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng Thanh -
Nghệ di cư vào khẩn hoang đất đai, lập thành làng mạc.
Dưới thời các chúa Nguyễn, có một số người Hoa từ các vùng Quảng
Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hải
Nam (Trung Quốc) đến sinh sống ở Thu Xà, các cửa biển Sa Cần, Sa
Huỳnh và một số điểm ở trung du. Người Hoa đóng vai trò tương đối
quan trọng trong sự phát triển kinh tế của vùng đất Quảng Ngãi thời
bấy giờ thông qua hoạt động buôn bán thịnh đạt ở Thu Xà. Nhưng trải
qua các cuộc chiến tranh, người Hoa phần đã phiêu tán đi nơi khác,
phần hòa nhập vào cộng đồng người Việt, không còn các cộng đồng làng
xã đặc thù.
Dưới thời Pháp thuộc, cho đến hết năm 1975, có một số người Pháp,
Mỹ, Ấn Độ, Chà Và (Java) đến sống ở Quảng Ngãi, nhưng chủ yếu là
chuyển cư tạm thời, hoặc không thành cộng đồng riêng. Do vậy, ở vùng
đồng bằng tỉnh Quảng Ngãi, ngoài dân tộc Việt là đáng kể nhất, không
có cộng đồng nào khác.
Ở miền núi, về dân tộc có sự ổn định hơn. Miền núi Quảng Ngãi có các
dân tộc Hrê, Cor,
Ca Dong sinh sống; họ là cư dân bản địa lâu đời,
sống theo từng khu vực và có sự đan xen nhất định, có sự giao lưu,
buôn bán với nhau và với người Việt ở miền xuôi lên buôn bán, khai
khẩn. Từ sau năm 1975, có một ít người các dân tộc thiểu số ở miền
núi phía Bắc vào, song chỉ là đơn lẻ và hòa nhập vào các cộng đồng
địa phương. Do vậy, nói đến dân cư, dân tộc ở miền núi Quảng Ngãi
cũng chỉ đề cập chủ yếu đến các dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong và Kinh.
Đến năm 2005, dân tộc Kinh chiếm 88,8%, Hrê 8,58%, Cor 1,8%, Ca Dong
0,7%; số người thuộc 13 dân tộc thiểu số khác chỉ chiếm 0,12% dân
số. Do vậy, nếu tính về dân tộc thì ở Quảng Ngãi có đến 17 dân tộc,
nhưng thực chất cũng chỉ có 4 dân tộc có số lượng cư dân đáng kể.
Nhìn chung, khối cộng đồng dân cư Quảng Ngãi phát triển theo tiến
trình của lịch sử, cùng đoàn kết, chung sức chung lòng trong công
cuộc chống phong kiến - đế quốc, dựng xây quê hương giàu đẹp.
II. THÀNH PHẦN DÂN TỘC
1. DÂN TỘC KINH (VIỆT)
Tộc danh chính thức gọi là Việt, nhưng để phân biệt với các dân tộc thiểu
số, thì người Việt thường được gọi là người Kinh.
Có thể cư dân Việt đã có mặt đầu tiên ở Quảng Ngãi vào đầu thế kỷ XV. Năm
1402, qua cuộc xung đột giữa phong kiến Đại Việt và phong kiến
Chămpa, vua Chămpa nhượng hai châu Chiêm Động và Cổ Lũy Động cho nhà
Hồ. Hồ Quý Ly đổi đặt thành 4 châu Thăng, Hoa (Quảng Nam), Tư, Nghĩa
(Quảng Ngãi). Hồ Quý Ly ra lệnh cho dân có của cải mà không có ruộng
đất ở vùng Nghệ An, Thanh Hóa đem vợ con di cư vào vùng đất mới để
khai khẩn; việc di dân này phần nào có tính bắt buộc. Những người
không có của cải, phương tiện canh tác thì nhà Hồ cấp phát trâu cho
họ. Nhà nước vận động dân chúng: ai có trâu đem hiến nộp sẽ được cấp
phẩm tước. Hồ Quý Ly bắt buộc những người nông dân di cư không được
quay về bản quán, sau khi đã thích dấu hiệu lên cánh tay của họ. Các
sử sách chép rằng: chữ Châu được thích lên cánh tay những người lưu
dân. Đây là cuộc di dân đầu tiên của người Kinh đến vùng đất Quảng
Ngãi.
Năm 1472, sau cuộc chinh phạt Chămpa của vua Lê Thánh Tông, vùng đất từ nam
đèo Hải Vân đến núi Thạch Bi nằm trong sự quản lý của Đại Việt và
được đặt thành đạo thừa tuyên Quảng Nam, gồm có 3 phủ: Thăng Hoa, Tư
Nghĩa và Hoài Nhân. Nhà Lê chiêu mộ dân chúng vào khai khẩn đất
hoang và đồng thời khuyến khích quân lính ở lại mở mang đồn điền,
phát vãng những tù nhân lưu đày vào nơi đây. Đây là những nguồn nhân
lực chủ yếu để khai phá vùng đất mới. Nhà nước không có chế độ hạn
điền, cho phép dân chúng mặc sức khai khẩn đất đai, cho phép thu lợi
3 năm trên vùng đất ấy rồi mới thu thuế. Đây là cuộc di dân lần thứ
hai của người Kinh đến vùng đất Quảng Ngãi. Cuộc di dân này rất quan
trọng; đây là thời điểm bắt đầu hình thành nên những làng người Việt
và những dòng họ lớn ở trên vùng đất thừa tuyên Quảng Nam.
Thời chúa Nguyễn, cư dân Việt ở Quảng Ngãi tương đối
ổn định nhưng vẫn còn thưa thớt. Với ý đồ cát cứ phương Nam, chúa
Nguyễn tiếp tục khuyến khích dân Việt từ vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ
ngày nay vào đây khai khẩn, lập nghiệp. Năm 1648, chúa Nguyễn đánh
thắng chúa Trịnh ở Quảng Bình, bắt sống 30.000 quân lính, phiên đặt
họ cứ 50 người thành một ấp, dọc theo bờ biển, bắt đầu từ Quảng Nam
trở vào phía nam. Dấu vết của làng Việt này còn thấy ở làng Tráng
Liệt (huyện Tư Nghĩa) mà gia phả còn truyền lưu.
Quá trình phát triển của dân tộc Kinh, được trình bày trên, là quá trình
phát triển lâu dài theo chiều thời gian, cụ thể là càng ngày cư dân
càng phát triển lớn về số lượng.
Vùng cư trú hiện nay của người Kinh tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng và
các thị tứ, thị trấn ở miền núi tỉnh Quảng Ngãi; một số sinh sống
đan xen với người dân tộc thiểu số ở miền núi. Khu vực đồng bằng,
dân tộc Kinh có khoảng 1.077.841 người, chiếm 83,7% dân số toàn tỉnh
và chiếm 94,8% tổng số dân tộc Kinh ở Quảng Ngãi.
Bảng dân số và phân bố dân số theo địa bàn của người Kinh
(31.12.2005)
2. DÂN
TỘC HRÊ
Hrê là tộc
người có số dân đứng hàng thứ hai trong tỉnh Quảng Ngãi sau
dân tộc Kinh.
Đến năm 2005,
dân số Hrê ở Quảng Ngãi có 112.947 người, cư trú ở các huyện Trà Bồng, Tây Trà, Sơn Hà, Sơn Tây, Minh Long, Ba Tơ, Nghĩa Hành và Tư
Nghĩa. Tuy địa bàn cư trú phân bố rộng như vậy nhưng dân tộc Hrê cư
trú tập trung ở các huyện Sơn Hà, Ba Tơ, Minh Long. Người Hrê sống đan
xen với người Kinh ở vùng tây các huyện Nghĩa Hành, Tư Nghĩa. Các
làng Hrê đan xen với người Ca Dong ở địa bàn phía đông huyện Sơn Tây
và sống đan xen với người Cor ở các xã phía nam của huyện Trà Bồng.
Ngoài ra, một vài nhóm nhỏ của dân tộc Hrê cư trú ở huyện Kon
Plong (tỉnh Kon Tum) và huyện An Lão (tỉnh Bình Định).
Hrê là tộc danh chính thức của dân tộc này. Trước kia, dưới thời
triều Nguyễn và Pháp thuộc, người Hrê được gọi bằng những phiếm
danh, có ý khinh miệt, như "Mọi Đá Vách", "Mọi Thạch Bích", "Mọi Sơn
Phòng", "Thượng Ba Tơ", "Mọi Lũy", "Mọi Chòm", "Chăm Rê", "Chăm
Quảng Ngãi"... Tuy nhiên, tên tự gọi của đồng bào Hrê thường theo
tên của dòng sông lớn trong vùng. Chẳng hạn ở Minh Long có sông Rvá
nên nhóm Hrê ở đây gọi là người Rvá; ở Ba Tơ có sông Liên nên gọi là
người Nước Liên và nơi có sông Rhe thì gọi là người Hrê; ở Sơn Hà có
sông Krế nên gọi là người Krế. Lưu vực sông Rhe được coi là ngọn
nguồn của dân tộc. Sau Cách mạng tháng Tám 1945 được thống nhất
chung tên gọi dân tộc Hrê.
Theo truyền
thuyết, nguồn gốc dân tộc Hrê gắn với núi Cao Muôn (huyện Ba Tơ) và
núi Mum (huyện Minh Long). Tiếng Hrê thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khơme
và thuộc ngành ngôn ngữ Bahnaric trong khu vực bắc Tây Nguyên. Tỷ lệ
từ chung khá cao bên cạnh một số biểu hiện tương đồng giữa tiếng Hrê
với tiếng Ba Na và Xơ Đăng. Đặc biệt, trong cộng đồng người Hrê còn
lưu truyền văn tự cổ sơ nhất, là "văn tự thắt gút" bằng các gút mây
buộc thắt (để đếm).
Người Hrê định
cư thành từng làng (plây)
với quy mô lớn nhỏ khác nhau. Làng Hrê xây dựng ven triền đồi, phía
dưới là thung lũng. Địa bàn cư trú nằm kề sát khu vực đất đai canh
tác và gần nguồn nước. Đồng bào chỉ di chuyển làng khi có dịch bệnh.
Nhà sàn Hrê nằm bố trí lớp lớp từ thấp lên cao, dựng ngang triền
đồi, nằm gọn trên khoảnh đất cao ráo, thoáng đãng. Vòng rào làng xưa
kia bao quanh vốn ken dày, dựng cao lên nhằm canh phòng kẻ gian và
thú dữ, nay đã biến thành bờ dậu của từng nhà, hoặc vẫn rào quanh
làng, nhưng chỉ để ngăn gia súc.
Trong xã hội
truyền thống của người Hrê, làng là đơn vị cư trú, đồng thời là cộng
đồng tự quản với những thiết chế sinh hoạt đã định hình từ lâu. Mỗi
làng đều có chủ làng (krăh plây), là người lớn tuổi am hiểu nhiều kinh nghiệm, có uy tín,
gia đình thuộc loại giàu có trong làng. Chủ làng là người cùng với
thầy cúng (pơ dâu) tổ chức
các lễ cúng của làng. Cá nhân chủ làng đứng ra chịu trách nhiệm tổ
chức bắc máng nước, làm đường, rào làng, hướng dẫn việc sản xuất,
giải quyết các vụ xử phạt, tổ chức chuyển làng... Để làm những việc
đó, chủ làng bàn bạc cùng với các thành viên trong hội đồng già
làng. Chủ làng hòa mình vào trong đời sống của cộng đồng. Dân làng
dành cho chủ làng sự kính trọng và giúp đỡ chủ làng khi ngày mùa bận
rộn... Chủ làng là chức vụ bầu theo lối dân cử, không theo nguyên
tắc cha truyền con nối. Mỗi làng Hrê đều có thầy cúng là người thông
thạo việc cúng tế thần linh. Ngoài ra ở mỗi gia đình, dòng họ đều có
tộc trưởng, đó là những người già đứng đầu gia đình dòng họ. Các tộc
trưởng quy tụ trong hội đồng già làng. Chủ làng bàn bạc công việc
sản xuất, xử kiện... với các thành viên trong hội đồng già làng.
Cuối cùng là các thành viên trong làng, những thành viên này cùng
đoàn kết tương trợ lẫn nhau trong một khối cộng đồng thống nhất.
Xã hội truyền
thống xưa kia của người Hrê có sự phân hóa giàu nghèo, do chênh lệch
về ruộng đất, về lao động và về thu nhập giữa các hộ gia đình. Trong
xã hội đó có bốn tầng lớp người: người giàu (proong),
người đủ ăn có chút ít dư thừa (lắp
ká), người thiếu ăn, kinh tế khó khăn (pa),
người đi ở vì nợ, nô lệ vì nợ (hapoong,
dik). Lắp ká và
pa thường chiếm tỉ lệ chủ
yếu trong cộng đồng Hrê. Tuy nhiên, những hộ thiếu ăn thường xuyên
có khi rơi vào trường hợp đi ở vì nợ.
Proong - người giàu và
hapoong - người đi ở vì nợ
thường chiếm tỉ lệ ít trong làng. Tiêu chí người giàu được xác định
là người có nhiều ruộng rẫy tốt, có nhiều trâu, lợn, gà, nhiều
chiêng, ché quý, có kho thóc to, nhà cửa dài rộng, lễ tết mặc đồ
đẹp, mang nhiều trang sức. Tuy nhiên, người giàu trong xã hội Hrê
thường không phải từ bóc lột mà chủ yếu từ sự lao động sản xuất cần
cù, tích lũy của cải bằng khả năng lao động của chính mình. Hapoong
là lớp người cùng cực nhất trong xã hội Hrê trước kia, vì nợ nần
không trả được họ phải ở làm trả công cho chủ nợ, thường bị đối xử
thấp hơn so với các thành viên khác trong làng. Ngày nay, trong cộng
đồng Hrê không còn sự phân biệt giữa các tầng lớp người như trên.
Nhìn chung, xã
hội Hrê vẫn mang tính cộng đồng thống nhất, đoàn kết gắn bó giữa các
thành viên. Điều này thể hiện ở các hình thức vần đổi công, tương
trợ, tục chia sẻ trong ăn uống lễ tết, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau.
Sự liên kết giữa các gia đình cũng như sự gắn bó của mỗi thành viên
với làng dựa trên quan hệ thân tộc hoặc quan hệ láng giềng.
Nguồn kinh tế đem lại thu nhập quan trọng nhất trong đời sống của
người Hrê là nông nghiệp trồng lúa nước. Các cánh đồng trồng lúa
thường nằm men theo triền đồi thấp, tạo thành những vùng ruộng bậc
thang đặc trưng. Do địa bàn cư trú xen giữa đồi núi và thung lũng
nên người Hrê tận dụng địa hình để mở mang đồng ruộng rất đa dạng,
có ruộng trên các dải đất cao, ruộng lầy ngập nước quanh năm, ruộng
bậc thang nhỏ hẹp... Trên vùng ruộng đó gieo cấy các loại giống lúa
nước mỗi năm hai vụ, nhưng phần lớn chỉ làm được một vụ. Canh tác
ruộng nước của người Hrê bằng phương pháp cuốc, cày, bừa, cấy mạ...
tương tự như người Kinh ở Quảng Ngãi. Đặc biệt, phương pháp đắp đập,
dẫn thủy nhập điền của người Hrê khá phát triển. Người ta dẫn nước
về ruộng bằng con mương đào dài hàng kilômét theo phương pháp thế
năng. Ngoài ra, người dân còn làm đập bổi hay kè đá để nước dâng lên
ruộng. Ruộng nước được canh tác hai vụ, vụ đông - xuân thu hoạch từ
tháng 4 đến tháng 5, vụ hè - thu thu hoạch từ tháng 8 đến tháng 9 Âm
lịch. Giống như người Kinh, mạ cấy được gieo ở đất khô, đất bãi
thành từng luống. Sau khi mạ lớn chừng 10 - 15cm, nhổ bó thành từng
bó và cấy. Hiện nay, phổ biến phương pháp gieo sạ. Ruộng được ngâm
nước, đất mềm chỉ bừa mà không cần cày. Gốc rạ bị bừa giập vùi xuống
bùn để mục làm tăng độ phì cho đất. Đồng bào bón phân chuồng vào đất
trước khi cấy sạ và chăm sóc lúa bằng các loại phân hóa học cùng với
các loại thuốc trừ sâu. Đặc biệt, khi cây lúa lên người ta không tát
nước vào ruộng mà chỉ đưa nước vào theo hệ thống mương dẫn từ đám
ruộng trên cao xuống dưới thấp. Lúa chín thu hoạch bằng liềm. Người
ta cắt lấy bông lúa, bó thành cụm rồi chuyển đến nhà ruộng dựng tại
cánh đồng. Sau đó, lúa được vò bằng chân, hoặc dùng máy suốt đạp
chân để tuốt lúa.
Nguồn thu nhập
từ rẫy chiếm vị trí thứ hai sau thu nhập hoa lợi ruộng nước và cũng
đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống của người Hrê. Một vụ lúa
rẫy kéo dài từ tháng 3, tháng 4 đến tháng 8, tháng 9. Lúa rẫy được
canh giữ chim thú từ khi còn nhỏ đến khi thu hoạch. Người ta làm
chòi rẫy để giữ lúa, để nghỉ ngơi, tránh nắng mưa khi đang mùa sản
xuất và chứa tạm sản phẩm thu hoạch trong lúc chưa kịp chuyển về
làng. Rẫy canh tác theo lối luân canh, mỗi đám rẫy chỉ canh tác một
vụ rồi trồng thứ khác hoặc bỏ hoang từ 3 - 5 năm, đợi rừng tái sinh
mới canh tác tiếp, rồi lại bỏ hoang hóa...
Nghề thủ công cũng góp phần bổ sung quan trọng trong đời sống kinh
tế tự cung tự cấp. Nghề thủ công truyền thống của người Hrê gồm có
nghề dệt, đan lát. Đan lát là nghề của đàn ông, sản phẩm đan lát là
các đồ dùng trong sản xuất và sinh hoạt hàng ngày. Chăn nuôi gia
súc, nhất là chăn nuôi trâu và chăn nuôi gia cầm tương đối phát
triển. Sản phẩm chăn nuôi dùng trong buôn bán trao đổi, làm thực
phẩm và dùng trong nghi lễ. Vùng cư trú của người Hrê nằm ở vị trí
thông thương với Tây Nguyên xuống và đồng bằng lên nên rất thuận lợi
trong trao đổi buôn bán. Thương nhân các nơi khác, nhất là người ở
vùng xuôi qua lại từng làng Hrê mua hạt cau khô,
hồ tiêu, mật
ong, trầu, vải dệt... và bán công cụ sắt, áo quần, muối, chè, đồ
trang sức...
Bảng dân số và
phân bố dân số Hrê theo địa bàn (thời điểm 31.12.2005)
3. DÂN TỘC COR
Dân tộc Cor là dân tộc có số dân đông thứ ba trong tỉnh
Quảng Ngãi và là dân tộc có số dân đông thứ hai trong các dân tộc
thiểu số, sau dân tộc Hrê. Năm 2005, dân tộc Cor trong tỉnh Quảng
Ngãi có hơn 24.550 người.
Địa bàn cư trú của dân tộc Cor ở các huyện Trà Bồng,
Tây Trà của tỉnh Quảng Ngãi và một ít ở huyện Trà My tỉnh Quảng
Đơn vị cư trú của người Cor là làng
(plây).
Plây bao gồm phần thổ cư của làng và tất cả các loại đất đai sản
xuất hay không sản xuất, rừng núi, suối sông trong một phạm vi được
xác định. Ranh giới của làng được truyền khẩu qua nhiều thế hệ, có
khi là dòng sông suối hay gốc cây, tảng đá, đỉnh núi, con đường
mòn... Toàn thể dân làng có quyền săn bắn, hái lượm, bắt cá, đốn gỗ,
dùng nước, canh tác rẫy, làm vườn trên đất làng. Các làng thường nằm
cheo leo trên sườn núi, làng có tên gọi riêng theo tên người đứng
đầu làng, theo tên sông, suối, tên đất, tên rừng, cũng có tên làng
phản ánh đặc điểm nào đó của nơi cư trú. Tùy thuộc chu kỳ quay vòng
canh tác rẫy, đồng bào phải di chuyển chỗ ở, nhưng chỉ chuyển quanh
trong khu vực đã xác định của làng mình.
Thiết chế xã
hội truyền thống của người Cor là đơn vị tự quản. Đứng đầu là chủ
làng (Kà răh plây), là
người có uy tín cao, giàu kinh nghiệm làm ăn, giàu có, xử lý tốt các
vụ tranh chấp và là dân gốc. Nhiệm vụ của chủ làng là đôn đốc sản
xuất cũng như bảo vệ làng, tổ chức lễ cúng tập thể cùng các nghi
thức tôn giáo khi chuyển làng, dàn xếp bất hòa nội bộ hoặc xích mích
giữa làng với bên ngoài, chủ trì giải quyết các vụ vi phạm luật tục.
Sự kính trọng của dân làng đối với vị đứng đầu làng của mình được
thể hiện qua cư xử hàng ngày, qua việc mời ăn uống, việc tín nhiệm
khi bàn bạc công việc chung hay riêng. Trong không gian nhà dài (nhà
xlúp), chủ làng thường ở khoảng giữa nhà để tiện điều hành sinh hoạt
và liên hệ với các hộ khác. Trong làng có nhiều dòng họ kế tiếp nhau
làm chủ làng, có thanh thế mạnh trong cộng đồng người Cor. Trong
hoàn cảnh xưa kia, vùng người Cor hay xảy ra xung đột, cướp phá, nên
việc tổ chức làng tự vệ là yêu cầu rất cần thiết. Trong làng các
trai tráng khoẻ mạnh họp thành nhóm dũng sĩ (gọi là
lôk kôk, lôk kal - người
dũng cảm, người can đảm). Đó là những thanh niên đàn ông khỏe mạnh,
có tài bắn nỏ, giỏi phóng lao đứng ra tập hợp trai làng bố phòng và
chiến đấu. Nhiệm vụ của nhóm dũng sĩ là chống lại những kẻ phá hoại
cuộc sống ổn định trong làng và chống giặc cướp, giữ gìn an ninh
trong vùng.
Nội bộ làng
Cor bao gồm các quan hệ láng giềng và quan hệ thân tộc cùng tồn tại
và chi phối đời sống con người. Người trong làng, phần đông là họ
hàng, dâu rể xa gần, quan hệ chằng chéo với nhau; số người thuần túy
cộng cư, không có liên hệ huyết thống hay hôn nhân với gia đình khác
chỉ là số người rất ít ỏi. Hình thái gia đình nhỏ của người Cor phát
triển phổ biến, bên cạnh đó còn một ít tàn dư gia đình lớn. Tộc
trưởng là người đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành đời
sống gia đình, giao tiếp với khách, cùng đại diện của các gia đình
khác họp bàn, giải quyết những công việc chung dưới sự chủ trì của
chủ làng. Trước đây, hàng chục gia đình cùng dòng họ, hoặc thân
thiết, chung sức làm thành một nhà sàn dài trên sườn đồi, bên suối
nước, gần nương rẫy. Mỗi nhà sàn gọi là một
nóc, mang tên người đứng
đầu nóc. Mỗi nóc chia thành nhiều cửa, mỗi cửa là một bếp, mỗi bếp
là nơi cư trú của một gia đình.
Cộng đồng
người Cor xưa kia có ý thức phân biệt giàu nghèo, trong đó có những
người đủ ăn, những người thiếu ăn và những người có dư thừa. Ý niệm
giàu có nghĩa là có nhiều lúa gạo, khố, váy, trâu, lợn, ché, chiêng,
nồi đồng... mà ở đây chủ yếu tự làm ăn gây dựng nên, không có khái
niệm bóc lột.
Đặc trưng sinh hoạt kinh tế của người Cor là lấy kinh tế nương rẫy
làm nguồn thu nhập chính. Đồng bào có nhiều giống lúa rẫy. Lúa rẫy gieo trồng vào tháng 5, thu hoạch vào
tháng 10. Bắp và mì cũng được trồng trên rẫy. Bắp thường trỉa hạt
vào tháng 4 và tháng 12. Đó là giống bắp hạt đỏ, hai tháng rưỡi thu
hoạch, là nguồn lương thực cứu đói trong thời kỳ giáp hạt. Vùng canh
tác của người Cor có độ dốc khá lớn, bị xói mòn nhanh theo những
trận mưa dữ dội nên người Cor chỉ gieo trồng một vụ đã phải bỏ hóa
một vài năm. Đồng bào quay vòng canh tác luân khoảnh trên diện tích
khác. Loại rẫy định canh không nhiều. Đó là những mảnh đất ít dốc
hay tương đối bằng, có thể sử dụng liên tục, thường để trồng thuốc
lá, ngô, sắn, cây ăn quả. Với phương pháp đa canh, xen canh, rẫy cho
nhiều loại sản phẩm, đáp ứng phần lớn nhu cầu thiết yếu hàng ngày,
từ lương thực cho đến rau xanh, trái cây, thuốc hút, thuốc bệnh, vv.
Vùng người Cor
nổi tiếng về giống trầu không và quế. Trầu vừa nhiều vừa ngon, là
một nguồn hàng quen thuộc được thương khách miền xuôi ưa thích. Trầu
góp phần tăng cường quan hệ giao lưu giữa đồng bằng với vùng núi.
Chính vì thế mà đồng bào Cor còn có tên gọi là tộc người
Trầu. Đặc biệt, người Cor
có nhiều rừng quế bạt ngàn, gồm các loại chính:
quế rừng mọc tự nhiên
trong núi, quý giá, nhưng hiếm;
quế thanh hay quế đắng, quế bùi được
trồng nhiều. Người Cor trồng cây quế bằng phương pháp ươm hạt. Mùa
trồng quế có mưa nhiều, vào những tháng cuối năm. Thường trên 10
năm, thậm chí 15 - 20 năm, quế mới đến "tuổi" lột vỏ. Thu hoạch quế
khá vất vả, phải trèo leo, nên chủ yếu là công việc của đàn ông.
Người ta dùng dao tiện vòng tách vỏ ra. Vỏ quế phơi trong bóng rợp,
ủ và phơi úp dưới nắng nhạt. Quế khô bó lại thành từng bó. Quế rừng
được bảo quản cẩn thận hơn, thường để trong ché lớn có nắp đậy kín.
Quế rừng là loại thượng hạng, đắt nhất, bởi giá trị trội vượt của
nó. Quế nách được lấy từ
chỗ chạc cây, chạc cành. Trong điều kiện rẫy không cung cấp đủ và ổn
định được lúa và hoa màu, ít ruộng, thiếu những nghề phụ góp phần
bảo đảm nuôi sống con người, nên cây quế có vai trò rất quan trọng
đối với người Cor.
Bảng dân số và
sự phân bố dân số của dân tộc Cor (thời điểm 31.12.2005)
4. DÂN TỘC CA
DONG
Ca Dong là tộc
người có số dân đứng thứ tư trong tỉnh Quảng Ngãi.
Địa bàn cư trú
của tộc người Ca Dong phân bố ở các huyện Sơn Tây (Quảng Ngãi), Sa
Thầy, Kon Plong (Kon Tum), Trà My (Quảng Nam). Tộc người Ca Dong là
một nhóm địa phương của dân tộc Xơ Đăng, thuộc ngữ hệ Môn - Khơme và
thuộc nhóm ngôn ngữ Bahnaric.
Hiện nay với
mức độ tài liệu hiện có, chúng ta có thể tin rằng những tộc người
thuộc dân tộc Xơ Đăng có lịch sử cư trú lâu đời trên vùng đất bắc
Tây Nguyên - nam Trường Sơn, trong đó tộc người Ca Dong có địa bàn
cư trú phân tán nhất, có thể ban đầu địa bàn cư trú của họ nằm quanh
dãy núi Ngọc Linh, chạy dài từ huyện Trà My (Quảng Nam) đến bắc Kon
Plông (Kon Tum), sau đó đã có một bộ phận đến cư trú ở vùng huyện Sa
Thầy, Đắk Glây (Kon Tum) và huyện Sơn Tây (Quảng Ngãi). Việc chuyển
cư của tộc người Ca Dong được lưu lại qua truyền thuyết dân gian về
câu chuyện hai anh em bất hòa nhau vì ăn thịt một con dúi (con
chúc), sau đó chia hai, người anh ở lại phía tây dãy Ngọc Linh trở
thành tổ tiên của nhóm Ca Dong ở Sa Thầy, Đắk Glây; người em đi về
phía đông phát triển nòi giống là tổ tiên của nhóm Ca Dong ở Sơn Tây, Trà My, Kon Plông. Người Ca Dong có truyền thuyết (amon)
về nguồn gốc phát xuất của tộc người giống nhau. Đó là câu chuyện về
người đàn bà duy nhất còn sống sót sau nạn đại hồng thủy nhờ chạy
tránh lên đỉnh núi cao nhất trong vùng và người đàn bà ấy là thủy tổ
- người mẹ của dân tộc. Tộc danh
Ca Dong có nghĩa là người sống
trên núi cao. Ý nghĩa của tộc danh này cũng đã phản ánh địa bàn
cư trú của người Ca Dong quanh vùng núi Ngọc Linh hùng vĩ, và trên
đỉnh mái nhà phía tây của tỉnh Quảng Ngãi, nơi bắt nguồn những dòng
sông, suối đổ về sông Trà Khúc.
Kinh tế truyền
thống của tộc người Ca Dong chủ yếu là nông nghiệp rẫy. Nông nghiệp
rẫy canh tác theo kiểu luân canh luân khoảnh, tức khai phá theo chu
kỳ kín, trồng trọt vụ đầu tiên, sau có thể sử dụng tiếp đến vụ hai,
vụ ba, rồi bỏ hoang hóa khoảng 10 - 12 năm mới canh tác lại. Người
Ca Dong không phát rẫy ở gần ngọn nước, đây là điều nghiêm cấm để
bảo vệ nguồn nước của làng. Xưa kia mỗi gia đình có diện tích rẫy từ
7 đến 8 gùi giống. Nông lịch trồng trọt ở rẫy của người Ca Dong như
sau: tháng 3, 4 phát rẫy; tháng 5, 6 đốt trỉa; tháng 7, 8, 9 trồng
xen canh các loại rau củ...; tháng 10, 11, 12 thu hoạch lúa; tháng
1, 2 nghỉ ngơi ăn tết. Lúa rẫy là các giống lúa có chu kỳ từ khi
gieo trồng đến khi thu hoạch khoảng 6 tháng, gồm các loại lúa như
mau nhế, mau hem, mau pi, mau
ka diêu, mau ka xon, mau nhiên... Trong các rẫy lúa cũng như các
mảnh vườn, đồng bào thường trồng bầu, bí, rau, đậu, cây có củ, đặc
biệt trên rẫy trồng loại cây
pho trái có hạt cơm trắng, ăn rất ngon, có giá trị như lương
thực chống đói. Rẫy được chăm sóc, làm cỏ và chống thú rừng, chim
chóc bằng cách rào rẫy, săn bắn, dùng bẫy, chông, nỏ, bù nhìn, đàn
nước...
Từ sau năm
1975, chính quyền địa phương đã vận động người Ca Dong chuyển dần
tập quán canh tác sang làm ruộng nước. Nhờ khai phá, diện tích ruộng
nước dần dần tăng lên và diện tích rẫy thu hẹp vì hiệu quả không
cao. Người Ca Dong hiện nay đã làm ruộng nước thuần thục, đã được
chính quyền giúp đắp đập ngăn nước chảy vào các con mương để đưa
nước vào ruộng. Những thửa ruộng bậc thang nói chung không rộng lắm
do địa thế đất trong vùng rất hẹp. Công cụ làm ruộng có cuốc, cày,
bừa. Chăm sóc lúa đã dùng phân bón và thuốc trừ sâu. Ruộng cấy hai
vụ thu hoạch năng suất tương đối khá.
Bên cạnh rẫy
và ruộng, người Ca Dong còn có vườn. Vườn ở đây chiếm một vị trí khá
quan trọng, nhất là việc trồng cau, thu trái bán đi các nơi trong và
ngoài tỉnh. Ngoài ra, vườn còn cung cấp thực phẩm, rau củ cho đồng
bào, làm giảm bớt lượng thức ăn do rừng cung cấp bằng hái lượm.
Trong kinh tế sản xuất của đồng bào Ca Dong, chăn nuôi đóng vai trò
quan trọng. Người ta nuôi trâu, dê, heo, gà... số lượng có khi lên
đến hàng đàn đông đúc. Sản phẩm chăn nuôi được dùng vào các mục đích
như cung cấp thực phẩm cho bữa ăn hàng ngày, cho các lễ thức tín
ngưỡng và cho các hoạt động trao đổi buôn bán. Chăn nuôi chủ yếu
theo cách thả rông.
Ngoài kinh tế
sản xuất nông nghiệp, người Ca Dong còn khai thác lâm thổ sản, thủy
sản, các ngành kinh tế này đóng vai trò quan trọng, góp phần thỏa
mãn nhu cầu lương thực và thực phẩm của đồng bào. Săn bắn ở đây phát
triển hơn đánh cá và hái lượm. Săn bắn là một cơ hội tích lũy các
sản phẩm quý như da hổ, sừng tê, nhung hươu, xương thú... để có hàng
trao đổi lấy chiêng, ché và các nhu yếu phẩm. Công cụ sử dụng trong
săn bắn thường là ná được làm bằng cây
long rui, mũi tên làm từ
nứa, lồ ô. Ná như là vật trang sức của đàn ông, người ta rất quý
trọng và đặt nó ở gian giữa nơi tiếp khách của chủ nhà. Ngoài ra,
người Ca Dong có nhiều loại bẫy thú như bẫy
ka rấu là loại bẫy thòng
lọng, thú bị vướng bẫy chân sẽ bị buộc và treo lên; bẫy
ka rấu mun, bẫy
a kíp là loại bẫy chuột; bẫy
ra năk là loại mang cung... Thịt thú rừng săn được đem về chia
cho xóm làng. Người đi săn giữ lại một phần thịt và đặc biệt là
xương má con thú, người ta để nó ở vị trí trang trọng nơi gian giữa
của nhà.
Người Ca Dong
vốn có nghề dệt vải phát triển nhưng nay đã mai một. Tất cả khố váy
đều mua từ những người đồng tộc Xơ Đăng hay mua từ dân tộc Hrê.
Người Ca Dong rất giỏi đan lát, những chiếc gùi mà họ đan có dáng
cân đối hài hòa, hoa văn đẹp. Nghề đan lát được cha mẹ truyền dạy
cho con từ nhỏ đến lúc trưởng thành, là tiêu chí quan trọng của
người đàn ông trước khi lập gia đình. Người Ca Dong không có nghề
làm gốm, tất cả đồ gốm đều được mua về từ bên ngoài. Đồ gốm chủ yếu
là ché dùng để đựng rượu cần.
Địa bàn cư trú
của người Ca Dong nằm giáp giới với vùng Tây Nguyên, có nhiều đường
bộ liên thông nên thường có các cuộc trao đổi hàng hóa với miền
xuôi. Người Ca Dong mua các loại chiêng, ché, vải mặc, nồi đồng,
buôn bán trao đổi bằng nguồn quế, loại cây hương liệu có giá trị
thương phẩm cao lúc bấy giờ. Ngoài ra, các sản phẩm chăn nuôi như
trâu, bò, dê được buôn bán trao đổi cho các cư dân vùng Tây Nguyên
để lấy chiêng, ché.
Đơn vị cư trú
cơ bản của tộc người Ca Dong là
plây (làng) hay
plây pla (làng xóm). Lớn
hơn đơn vị làng xóm gọi là
gung (vùng), gồm nhiều làng hợp lại. Khái niệm
plây hoàn chỉnh bao hàm
mỗi làng có một ranh giới (bơla) nhất định, ranh giới đó có thể là những khu rừng vô chủ. Mỗi
một plây bao gồm một khu
dân cư tập trung với những nóc nhà
(nhe) gắn với những kho thóc của các hộ gia đình. Mỗi
plây có chung một máng
nước để uống, nước uống rất quan trọng và là tiêu chí chọn lựa đầu
tiên khi lập một làng mới. Mỗi
plây có chung một nghĩa địa rừng ma
(ha năng) được coi là
khu rừng thiêng. Khu rừng này phải nằm ở phía dưới nguồn nước. Quan
trọng hơn, mỗi plây có
chung một vùng ruộng rẫy canh tác, một vùng rừng chăn nuôi và săn
bắn, một đoạn sông, suối chảy qua đất làng. Làng của người Ca Dong,
các ngôi nhà sàn được quy hoạch theo cùng hướng, không cắt phá nhau
nên nhìn từ xa trông rất đẹp.
Dưới
plây (làng) có
nóc, tập hợp một vài ngôi
nhà dài. Trong mỗi nóc nhà dài có năm bảy thế hệ cùng sinh sống, đó
là các tiểu gia đình trong một đại gia đình phụ hệ. Khác với nhiều
cư dân Tây Nguyên và những người đồng tộc Xơ Đăng, làng của người Ca
Dong không có nhà rông. Ở đây có loại hình
nhà dài; mọi sinh hoạt
mang tính tập thể của cộng đồng đều diễn ra ở nhà của chủ làng (k’răh plây).
Thiết chế xã
hội truyền thống của người Ca Dong là một thiết chế ổn định, bền
chặt. Người đứng đầu plây gọi là chủ làng. Chủ làng được cộng đồng
làng chọn lựa bầu lên, là người có uy tín, nhân cách, được mọi người
trong làng kính trọng, có nhiều kinh nghiệm, hiểu biết về luật tục
và lao động sản xuất, có nhiều chiêng ché trong nhà, trâu bò nhiều
ngoài rừng, được xem là gia đình giàu có. Vai trò của chủ làng trong
cộng đồng tộc người Ca Dong rất lớn. Nhiệm vụ của chủ làng là chịu
trách nhiệm chọn đất lập làng, chọn nguồn nước, chọn vùng rẫy canh
tác, là người có trách nhiệm cúng tế thần linh, đứng ra giải quyết
các vụ việc tranh chấp, phân xử những việc vi phạm đến tập quán. Chủ
làng đại diện cho làng mình trong việc giao tiếp với làng khác, chủ
làng còn là người quyết định những cuộc chiến đấu giữ làng hoặc tiếp
xúc với các đoàn buôn hay thương lái từ bên ngoài đến buôn bán. Khi
dân làng thiếu ăn hay đau ốm, chủ làng phải giúp gạo lúa, heo gà cho
người bị nạn và không bắt buộc thời hạn trả cũng như trả lãi. Chủ
làng là người thường hay tổ chức lễ ăn trâu tạ ơn thần linh, đồng
thời qua đó thể hiện sự giàu có của mình cũng như tập hợp những dòng
họ trong làng để con cháu có thể biết được nhau. Phó chủ làng
(jang k'răh plây) là người
trực tiếp giúp việc cho chủ làng khi chủ làng đi vắng hay đau ốm.
Tộc trưởng (k'răh nhê) là
những người đứng đầu mỗi nóc nhà dài. Các tộc trưởng cùng hợp nhất
thành hội đồng tộc trưởng (già làng). Hội đồng tộc trưởng cùng với
chủ làng, phó chủ làng bàn thảo, quyết định một việc quan trọng nào
đó trong làng. Thầy cúng (pơ
dâu) là người đại diện trung gian giữa thần linh và con người.
Thầy cúng biết rất nhiều bài hát cúng thần linh cùng với các nghi
thức cúng tế. Làng Ca Dong là một cộng đồng gồm những thành viên có
hay không cùng quan hệ huyết thống. Những thành viên không đồng tộc
nếu gia nhập làng hay dâu, rể trong làng đều dựa trên nguyên tắc
sống hòa mình vào cộng đồng làng, tự coi mình là người đồng tộc, là
thành viên của làng, theo tập quán của làng. Tất cả các thành viên
trong làng đều bình đẳng và cố kết nhau trong một khối cộng đồng
làng thống nhất được quy định bởi luật tục.
Trong xã hội truyền thống của người Ca Dong đã có sự phân chia giàu
nghèo, dựa trên lượng lúa gạo thu hoạch, chiêng, ché, trâu bò...
Trong làng có ba loại người: người giàu, người đủ ăn và người nghèo,
nhưng chưa thấy có sự bóc lột nhau. Làng Ca Dong là một cộng đồng
bền chặt trên cơ sở tập quán truyền miệng từ đời này qua đời khác.
Đó là một cộng
đồng mà mọi thành viên đều một lòng một dạ mong muốn cho làng của
mình ngày càng lớn nhanh như cây gạo và tồn tại mãi mãi như cây đa,
cây si.
Bảng dân số và
phân bố dân số của dân tộc Ca Dong theo địa bàn(thời điểm 31.12.2005)
III. QUAN HỆ
GIỮA CÁC TỘC NGƯỜI
Từ thời tiền
sử, trên vùng đất Quảng Ngãi phần nào đã có sự hợp chủng hòa huyết
giữa các nhóm Nam Đảo
và nhóm Nam Á. Từ thế kỷ XV trở đi, trên vùng đất Quảng Ngãi đã có
sự hợp huyết nhất định giữa người Chăm bản địa và người Kinh từ miền
Bắc di cư vào, giữa người thiểu số miền núi và người Kinh đồng bằng,
giữa người Kinh và nhóm người Hoa di cư từ Nam Trung Hoa đến. Giữa
các dân tộc anh em đã có sự giao lưu, trao đổi từ lâu đời với nhau.
Từ ngày Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời, tinh thần đoàn kết các dân tộc trên đất
Quảng Ngãi càng được phát huy mạnh mẽ. Các cụ Phó mục Gia, Chánh
Nhá, Phó Nía... và nhiều chiến sĩ yêu nước, cách mạng của các dân
tộc Cor, Hrê, Ca Dong là tiêu biểu cho tinh thần đoàn kết Kinh -
Thượng, đấu tranh bất khuất, sẵn sàng xả thân cứu dân, cứu nước vì
lý tưởng độc lập, tự do, vì hạnh phúc chung.
Các dân tộc
thiểu số Quảng Ngãi cùng nằm trong một khu vực lịch sử - dân tộc
học, có chung một vận mệnh lịch sử lâu đời, đã cùng nhau tham gia
vào những cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột của các triều đại
phong kiến và những cuộc đấu tranh chống xâm lược. Đặc biệt, sống
trong vùng thiên nhiên phong phú, đa dạng nhưng vô cùng khắc nghiệt,
đồng bào các dân tộc miền núi đã xây dựng nên truyền thống đoàn kết,
gắn bó cùng nhau để sinh tồn. Các mối liên hệ chặt chẽ về kinh tế,
văn hóa, xã hội giữa các dân tộc đã có từ lâu đời. Nhưng mỗi tộc
người đều có những phong tục tập quán và đặc điểm riêng.
Về kinh tế,
quan hệ mua bán, trao đổi giữa các dân tộc thực hiện bằng nhiều hình
thức, đã được xác lập từ lâu đời. Đồng bào trao đổi với nhau các
công cụ lao động như dao, rựa, những sản vật từ săn bắt, hái lượm
được hoặc những đặc sản như quế, trầu, cau, chè... Mối quan hệ giao
lưu kinh tế đó diễn ra không chỉ trong nội bộ tộc người mà còn diễn
ra giữa các tộc người cận cư, đặc biệt là với người Kinh để trao
đổi, mua bán các sản phẩm nông, lâm nghiệp và các nhu yếu phẩm cần
thiết cho cuộc sống của đồng bào.
Về mặt ngôn
ngữ, mỗi dân tộc ở miền núi Quảng Ngãi thường không chỉ nói ngôn ngữ
mẹ đẻ, mà còn biết tiếng nói các dân tộc láng giềng. Vì cùng chung
hệ ngôn ngữ Môn - Khơme nên các dân tộc Hrê, Cor, Ca Dong rất dễ
dàng hiểu tiếng nói của nhau.
Cho đến nay, sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc thiểu số đã đến
mức trong các hình thức sinh hoạt văn hóa của từng tộc người thật
khó phân biệt rạch ròi đâu là yếu tố bản sắc riêng của tộc người,
đâu là yếu tố vay mượn. Đó là những phong tục tập quán như hội mùa,
hội cồng chiêng, lễ đâm trâu hay những hình thức văn nghệ dân gian
như truyện cổ, dân ca, các nhạc cụ... Các mối quan hệ giữa các dân
tộc miền núi Quảng Ngãi ngày càng được củng cố và phát triển về mọi
mặt, phù hợp với xu thế thời đại và phù hợp với nguyện vọng chính
đáng của bà con các dân tộc miền núi trên con đường hội nhập đi lên
xây
dựng chủ nghĩa
xã hội.
IV. MỘT SỐ ĐẶC
TRƯNG VỀ DÂN SỐ TỈNH QUẢNG NGÃI
1. KHÁI QUÁT
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN DÂN SỐ
Sự phát triển
dân số ở Quảng Ngãi (bao gồm các dân tộc cùng sinh sống ở Quảng
Ngãi) qua các thời kỳ, từ năm Cảnh Hưng thứ 14 (1753) đến nay được
thể hiện ở bảng dưới đây: Dân số Quảng Ngãi qua các thời kỳ (*)
2. DÂN SỐ VÀ
MẬT ĐỘ PHÂN BỐ DÂN SỐ NĂM 2005
Số đơn vị hành
chính, diện tích, dân số và mật độ dân số năm 2005
3. CƠ CẤU DÂN
SỐ CHIA THEO GIỚI TÍNH
Dân số trung
bình phân theo giới tính 2005
Xét về dân số
trung bình phân theo giới tính, nữ (51,5%) chiếm tỷ lệ cao hơn nam
(48,5%) là 3%.
4. DÂN SỐ PHÂN
THEO ĐỘ TUỔI LAO ĐỘNG
Đến năm 2005,
dân số Quảng Ngãi trong độ tuổi lao động là 694.792 người, chiếm
53,8% dân số toàn tỉnh. Đây chính là lực lượng lao động khá dồi dào
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Trong
đó, nữ trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 51,1% số người trong độ
tuổi lao động.
5. TỶ LỆ
SINH
VÀ CHẾT
Nhờ thực hiện
tốt kế hoạch hóa gia đình và điều kiện sống của người dân trong
những năm gần đây ngày càng được cải thiện tốt hơn, nên tỷ lệ sinh
và chết của người dân Quảng Ngãi ngày càng giảm.
Tỷ lệ sinh và
chết giai đoạn 2000 - 2005
6. TỶ LỆ TĂNG
DÂN SỐ TỰ NHIÊN
Tỷ lệ tăng dân
số tự nhiên giai đoạn 2000 - 2005
|