Trở về

III. VẤN ĐỀ LÀNG XÃ

Đơn vị cơ sở làng xã ở Việt Nam luôn có vị trí rất quan trọng trong đời sống văn hóa - xã hội. Cũng như trong toàn quốc, đặc trưng này thể hiện rõ nét ở Quảng Ngãi.

Nếu như các đơn vị từ xã (ngày nay), tổng (ngày xưa) đến huyện và tỉnh chủ yếu mang tính chất hành chính, thì làng xã xưa vừa mang tính hành chính, lại hàm chứa nhiều giá trị văn hóa của địa phương, dân tộc. Các làng xã xưa hầu hết hiện thân dưới tên thôn thời kỳ hiện đại và hàm chứa chiều sâu lịch sử.

1. CÁC LÀNG XÃ MIỀN XUÔI

Các làng xã miền xuôi Quảng Ngãi bắt đầu hình thành dưới triều Lê sơ, nhưng chủ yếu từ thời các chúa Nguyễn trở về sau.

1.1. SỰ HÌNH THÀNH LÀNG XÃ

Làng xã của người Việt ở miền xuôi hình thành gắn liền với quá trình di cư và khai khẩn. Những người tổ chức khai khẩn lập làng đầu tiên thì gọi là tiền hiền, được vua ban sắc phong tri ân, thờ phụng. Những người có công kế tục khai khẩn thì được tôn là hậu hiền. Làng xã có người đứng đầu, tùy theo thời kỳ mà gọi là Lý trưởng hay Tri thủ, Cai tri. Số dân các làng xã đầu tiên phần lớn từ Bắc Trung Bộ và Bắc Bộ vào lập nghiệp sinh sống cùng cư dân bản địa. Các làng xã sau này thì một phần quan trọng là do cư dân sinh tụ tại chỗ.

1.2. KẾT CẤU LÀNG XÃ

Hầu hết các làng xã đều có đình làng như mẫu số chung của văn hóa Việt. Làng có hương ước hay lưu chiếu văn quy định cách ứng xử của các thành viên trong làng. Quan hệ trong làng là quan hệ láng giềng đan xen với quan hệ huyết thống, hầu hết những người làng đều là bà con xa gần với nhau qua quá trình sinh cơ lập nghiệp. Đình làng là nơi làm việc của làng, sinh hoạt cộng đồng… Nhiều làng có đình lớn nổi tiếng như đình làng Ba La, đình làng Tư Cung, đình làng An Ba, đều có kiến trúc đẹp, tiếc rằng qua các cuộc chiến tranh hầu hết các đình đã không còn. Hiện nay còn lại đình làng An Hải, An Định, Lâm Sơn. Một số còn lại dấu tích hậu đình như đình Tân Hy, Tình Phú, Lạc Phố, Bình An, Bình Chương… Mỗi làng thường có nghĩa từ, nghĩa trũng để thờ cúng cô hồn, có miếu thần nông để thờ thần lúa, miếu thành hoàng thờ thổ thần, miếu Bà để thờ Bà Chúa Ngọc (Thiên Y A Na)… Trong văn hóa các làng xã phổ biến tục hát hò, hát hố và nhiều sinh hoạt văn hóa dân gian khác. Làng ven biển và đảo Lý Sơn của Vạn Chài có đền thờ Cá Ông gọi là Lăng hay thờ Rác Cá, Thủy Thần.

1.3. ĐỊA DANH LÀNG XÃ

Về danh xưng hành chính của các làng xã, tùy theo trường hợp mà có thể gọi là xã, thôn, vạn, ấp, ty, trại, phường (như đã chú thích ở trước).

Riêng về tên gọi (địa danh) cho từng làng xã cụ thể, ở Quảng Ngãi hình thành từ hai nguồn hay hai hình thức như sau:

Tên chữ, tức tên gọi bằng chữ (chữ Hán) được chính quyền đặt khi làng xã hình thành. Sau này không dùng chữ Hán như một văn tự chính thức thì người ta đặt bằng chữ Quốc ngữ;

Tên Nôm, tên gọi thông dụng của làng xã, do nhân dân đặt.

Cũng có trường hợp làng xã chỉ có tên chữ, cũng có trường hợp tên chữ song song tồn tại với tên Nôm, lại cũng có trường hợp tên Nôm được biết nhiều hơn tên chữ. Nhiều địa danh làng xã đã tồn tại xuyên suốt từ khi nó được hình thành đến nay, trải mấy trăm năm, và lưu tồn trong tên thôn.

1.4. CÁCH ĐẶT TÊN LÀNG XÃ

Có nhiều cách khác nhau được dùng để đặt tên làng xã:

Dễ nhận biết nhất là làng xã được đặt tên theo đặc điểm tự nhiên hay sinh hoạt của làng xã đó. Trong trường hợp này có tên xã Thạch Trụ 石 柱 - có nghĩa là cột đá, vì ở đây có cây cột đá mọc tự nhiên; Thạch Bi 石 碑 - làng có bia đá (của người Chăm), Giao Thủy 膠 水 - làng ở chỗ có các con nước giao nhau…

Làng xã được đặt theo tên cây trồng hay cây dại: như Lam Điền 藍田 (ruộng chàm); Quýt Lâm 橘林 (rừng quất); Ba La 波 羅 (làng cây mít, làng cây sung)…

Làng xã được đặt theo nghề nghiệp: đây là trường hợp hơi hiếm, vì ở Quảng Ngãi ít có làng nghề, như trường hợp Chú Tượng Ty 鑄 匠司 - có nghĩa là làng làm nghề đúc đồng (ở huyện Mộ Đức); Diêm Điền 鹽田 - làng có ruộng muối (ở huyện Sơn Tịnh); Lò Thổi (ở huyện Bình Sơn).

Làng xã lấy tên theo quê gốc: với người Việt Nam, quê gốc rất thiêng liêng, nên có làng xã người ta lấy tên quê gốc đặt cho tên quê mới, như Vạn Phước (Phúc) 萬 福, An (Yên) Mô 安 謨, đều có gốc từ Bắc Bộ. Sau khi hình thành thêm làng ở quê mới, người ta lại tiếp tục đặt tên làng đã có cho làng mới, chỉ thêm hai chữ "Tân lập" (mới lập).

Làng xã lấy theo ý chí, ước nguyện hay với một ý nghĩa bóng bẩy: địa danh làng xã đôi khi không xuất phát từ những thực tế mà lại phản ánh phần ý nguyện bên trong của con người. Trường hợp này ở Quảng Ngãi có rất nhiều, như các làng xã có mang chữ Phú 富 (giàu), An 安 (yên ổn), Lộc 祿 (lợi lộc), Vinh 榮 (tươi tốt), Thọ 壽 (lâu dài), như Phú An 富安, Lộc An 祿 安, Vinh Phú 榮 富, Lộc Thọ 祿 壽…

Như vậy, tên làng xã xưa thường gắn với đặc điểm hoặc ý nguyện của con người thời mới lập làng và gắn bó với tên gọi đó qua nhiều thế hệ (1).

1.5. CHUYỂN BIẾN TÊN LÀNG XÃ

Ngay từ thời phong kiến, không phải tất cả tên các làng xã ở Quảng Ngãi đều giữ nguyên tên ban đầu của nó. Do kỵ húy, do tách lập làng xã mới hoặc vì một lý do nào đó, tên một số làng xã phải có thay đổi. Chẳng hạn do kỵ húy mà từ năm 1841, các xã Hoa Bân, Hoa Sơn phải đổi thành Văn Bân, Tú Sơn. Năm 1935, do cải cách hương thôn trong thời Pháp thuộc mà Phú Lộc đổi thành Kiến Khương, Trung Yên Thượng đổi là Phước Thành. Do tách lập trại mà Trà Bình có thêm làng mới là Trà Bình Trại; Vạn Phước thì có thêm Vạn Phước Đông, Vạn Phước Tây… Tuy nhiên, số làng xã thay đổi tên gọi không nhiều.

Bước sang thời kỳ hiện đại, tên làng xã xưa còn lưu lại có sự thay đổi tên gọi nhiều hơn. Bên cạnh tên hầu hết các làng xã lưu lại trong tên thôn, có một số làng xã không còn lưu giữ được. Như trường hợp xã Thanh Hiếu (thuộc huyện Đức Phổ). Nhiều thôn mang tên làng xã xưa tách lập thì đặt theo cách thêm các yếu tố Thượng, Hạ, Trung, Nam, Bắc, Đông, Tây, Một, Hai… như Vạn Xuân 1, Phú Lâm Đông, La Hà 3, Điện An 1, Thạch Trụ Tây, Hiệp Phổ Bắc, Hiệp Phổ Nam, Hiệp Phổ Trung… Tuy nhiên, cũng có tên làng xã xưa hay tên thôn ngày nay khi có trường hợp tách lập, hoạch định hành chính thì không còn dùng yếu tố gốc, như trường hợp các thôn ở xã Nghĩa Lâm, Đức Nhuận, thay vào đó là tên gọi theo số thứ tự (thôn 1, thôn 2…) (2).

2. CÁC LÀNG NÓC MIỀN NÚI 

Các làng nóc của đồng bào dân tộc ở miền núi có từ lâu đời và có khi còn đậm chất văn hóa dân tộc, văn hóa cộng đồng làng hơn cả miền xuôi. Làng của các dân tộc Hrê, Ca Dong gọi là plây, plei; ở dân tộc Cor còn gọi là nóc, vì thực tế một làng chỉ có một căn nhà dài rộng cho cả làng.

Làng nóc của đồng bào dân tộc miền núi hình thành trên cơ sở có dân cư đủ để lập và có một vùng diện tích đất đai có nguồn nước cho sinh hoạt, cư trú và sản xuất. Cũng như dân tộc Kinh ở miền xuôi, làng nóc của đồng bào dân tộc ở miền núi có từ lâu đời.

Làng nóc của đồng bào dân tộc ở miền núi cũng thể hiện đậm nét bản sắc của dân tộc, hàm chứa yếu tố tự quản, các giá trị văn hóa nghệ thuật, văn hóa tín ngưỡng… trong phạm vi làng nóc.

Địa danh làng nóc ở miền núi thường gọi theo tên con suối, ngọn núi, gò đất như Gò Chè, Gò Rộc, Cà Xen, Gò Tranh, Nước Chu hoặc gắn với đặc điểm địa hình như làng Teng (Teng có nghĩa là vùng đất bằng phẳng). Cũng có nhiều trường hợp gọi theo tên chủ nóc như nóc Ông Tơ, nóc Ông Khang, nóc Ông Lang. Làng nóc ở miền núi còn được đặt tên theo sự tích như làng Ra Nhua (có nghĩa là điên loạn) vì làng đó xưa có người điên; làng Mang Tà Bể có ngụ nghĩa gắn với sự tích 7 người con trai chọc lỗ và một cô gái trỉa hạt, cô gái đuối sức chết… Cũng như ở miền xuôi, hầu hết các tên làng nóc ở miền núi đều giữ nguyên tên gọi đến ngày nay và cũng có một số chuyển đổi tên gọi thành thôn 1, thôn 2… (3).

Sự chuyển biến tên gọi của các làng ở miền xuôi, miền núi là tất yếu, nhưng nên có cách lưu lại tên gốc, bởi vì ngoài tính chất hành chính, làng xã (xưa) hay thôn ngày nay là một đơn vị cơ sở gắn với chiều sâu văn hóa cổ truyền, là một đơn vị vừa đủ về không gian và số lượng dân cư để sinh hoạt cộng đồng. Cộng đồng làng xã hay thôn sẽ là nền tảng để kế thừa tiếp biến, xây dựng xã hội hiện đại mang đậm bản sắc dân tộc.


(1) Xem Phụ lục I ở cuối chương: Danh sách các đơn vị hành chính đời vua Đồng Khánh.
(2) Xem thêm danh sách các thôn ở Phần V viết về các huyện, thành phố.
(3) Xem tên các thôn ở Phần V viết về các huyện, thành phố.

Trang trước

Về đầu trang