THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI VÀ CÁC HUYỆN TRONG TỈNH
----------------------------
 

 

HUYỆN TRÀ BỒNG

TRÀ BỒNG là huyện miền núi nằm ở tây bắc tỉnh Quảng Ngãi. Phía đông giáp hai huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh; phía tây giáp huyện Tây Trà; phía nam giáp huyện Sơn Hà; phía bắc giáp huyện Trà My và huyện Núi Thành (tỉnh Quảng Nam). Diện tích 418,75km2. Dân số 29.316 người (năm 2005). Mật độ dân số khoảng 70 người/km(1). Đơn vị hành chínhh trực thuộc gồm 9 xã (Trà Phú, Trà Bình, Trà Giang, Trà Thuỷ, Trà Hiệp, Trà Tân, Trà Bùi, Trà Sơn, Trà Lâm), 1 thị trấn (Trà Xuân, huyện lị), với 44 thôn; trong đó:

Thị trấn Trà Xuân có 3 thôn: Xuân Tây, Xuân Trung, Xuân Đông (đều lấy chữ Xuân làm đầu), sau đổi là tổ dân phố số 1, tổ dân phố số 2, tổ dân phố số 3;

Xã Trà Phú có 4 thôn: Phú Hòa, Phú An, Phú Long, Phú Tân (đều lấy chữ Phú làm đầu);

Xã Trà Bình có 4 thôn: Bình Thanh, Bình Tân, Bình Trung, Bình Đông (đều lấy chữ Bình làm đầu);

Xã Trà Giang có 3 thôn: thôn 1 Trà Mít (Trà Công), thôn 2 Trà Ngang (Trà Giăng), thôn 3 (Trà Nhỉ);

Xã Trà Thuỷ có 6 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 đến thôn 6;

Xã Trà Hiệp có 4 thôn: thôn Cả, thôn Cưa, thôn Nguyên, thôn Bằng;

Xã Trà Tân có 4 thôn: Tà Ót, Tà Ngon, Trường Biện, Trường Giang;

Xã Trà Bùi có 5 thôn: thôn Quế, thôn Tang, thôn Tây, thôn Gò, thôn Niêu;

Xã Trà Sơn có 7 thôn: Sơn Bàn, Sơn Thành, thôn Đông, thôn Bắc, thôn Trung, Cà Tinh, thôn Tây;

Xã Trà Lâm có 4 thôn: Trà Xanh, Trà Khương, Trà Hoa, Trà Lạc (đều lấy chữ Trà làm đầu).

Từ tỉnh lỵ Quảng Ngãi đến thị trấn Trà Xuân 55km, trong đó có 24km Quốc lộ 1 và 21km đường tỉnh lộ 622.

Trà Bồng là địa bàn cư trú lâu đời của dân tộc Cor với cây quế nổi tiếng, với vùng đông là các xã người Kinh chuyên làm lúa nước. Nơi đây từng nổ ra cuộc Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi 28.8.1959. Trà Bồng chủ yếu phát triển nông, lâm nghiệp, công - thương nghiệp phát triển chủ yếu ở các xã vùng thấp trong huyện.

*
*          *

Về hành chính, Trà Bồng xưa là một trong bốn nguồn (nguyên) của tỉnh Quảng Ngãi, thường được gọi là nguồn Đà Bồng, sau đổi là nguồn Thanh Bồng, rồi đồn Trà Bồng, châu Trà Bồng, có 3 tổng, 34 sách (làng).

Sau Cách mạng tháng Tám 1945, châu Trà Bồng đổi là huyện Trà Bồng, các sách cũ nhập thành các xã mới, các làng tây Bình Sơn nhập vào huyện Trà Bồng, hình thành 13 xã: Trà Khê, Trà Phong, Trà Quân, Trà Lâm, Trà Giang, Trà Thanh, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Thuỷ, Trà Sơn, Trà Xuân, Trà Phú, Trà Bình; đại để tên các xã không khác mấy với các xã, thị trấn ở hai huyện Trà Bồng, Tây Trà ngày nay. Đến năm 1951, 3 xã Trà Xuân, Trà Phú, Trà Bình (nguyên là các làng Xuân Khương, Đông Phú, Vinh Hòa thời Pháp thuộc) cắt giao về cho huyện Bình Sơn, thành 1 xã là xã Bình Lâm.

Từ sau 1954, chính quyền Sài Gòn tiếp quản, đến giữa năm 1958, đổi huyện Trà Bồng thành quận Trà Bồng, đổi tên xã cũ thành tên xã mới (cũng lấy chữ Trà làm đầu): xã Trà Xuân đổi thành Trà Khương; xã Trà Giang đổi thành Trà Nhỉ; xã Trà Thuỷ đổi thành Trà Bắc; xã Trà Sơn đổi thành Trà Lang; xã Trà Thanh đổi thành Trà Đoài; xã Trà Lâm đổi thành Trà Binh; xã Trà Lãnh đổi thành Trà Trung; xã Trà Nham đổi thành Trà Thượng; xã Trà Quân đổi thành Trà Hương; xã Trà Khê đổi thành Trà Hoa; xã Trà Phong đổi thành Trà Thạnh. Quận lỵ đặt ở xã Trà Khương (Trà Xuân).

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng kháng chiến quyết định cắt các xã phía nam Cà Đam của huyện Sơn Hàdân tộc Cor sinh sống là các xã Sơn Thọ, Sơn Hiệp, Sơn Bùi, Sơn Tân nhập vào Trà Bồng, đổi thành các xã Trà Thọ, Trà Hiệp, Trà Bùi, Trà Tân. Có thời, các xã đông bắc được cắt thành khu I, các xã quanh núi Cà Đam được tách lập thành khu II, các xã phía tây huyện cắt lập thành khu IX, trực thuộc vùng căn cứ địa của Tỉnh uỷ.

Sau năm 1975, sau nhiều lần tách nhập các xã, đến cuối năm 2003, Trà Bồng có 19 xã thị trấn: Trà Thanh, Trà Khê, Trà Quân, Trà Phong, Trà Thọ, Trà Hiệp, Trà Lâm, Trà Lãnh, Trà Thuỷ, Trà Sơn, Trà Nham, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Phú, Trà Bình, Trà Tân, Trà Trung, Trà Xinh và thị trấn Trà Xuân.

Cuối năm 2003, 9 xã phía tây huyện được tách lập thành huyện mới Tây Trà. Trà Bồng còn 10 xã, thị trấn (như đã kể trên).

Về tự nhiên, Trà Bồng là huyện miền núi, với diện tích đồi núi chiếm phần lớn đất đai trong huyện. Vùng đồng bằng nằm ở phía đông huyện, giáp giới với huyện Bình Sơn và phía hữu ngạn sông Trà Bồng, ở các xã Trà Bình, Trà Phú và thị trấn Trà Xuân. Địa hình Trà Bồng khá phức tạp, bị chia cắt mạnh bởi các khối núi và sông suối chằng chịt trong các thung lũng nhỏ hẹp. Núi ở đây có độ dốc rất lớn.

Núi đồi bao bọc khắp nơi trong huyện, như núi Cà Đam, núi Răng Cưa, núi Chớp Vung, núi Cà Đú... Hệ thống sông suối gồm sông Trà Bồng, sông Giang, sông Trà Bói, suối Cà Đú, suối Trà Cân, suối Nun. Đất bằng và thung lũng ở Trà Bồng rất ít ỏi, nhỏ hẹp. Rừng núi Trà Bồng có nhiều lâm thổ sản, đất đai thích hợp với cây quế. Phía đông Trà Bồng có suối khoáng Thạch Bích đang được khai thác dùng trong công nghiệp nước uống.

Khí hậu Trà Bồng nắng lắm mưa nhiều, lượng mưa ở đây thuộc hạng cao nhất trong nước, gây ra nhiều hạn hán, lũ lụt, độ ẩm cũng khá cao.

Trong lời truyền của dân và trong các truyện cổ đều thể hiện những ký ức kinh hoàng về các trận lũ, nhất là trận lũ 1964. Tình trạng lở đất xảy ra ở một số nơi, hiện tượng nứt núi cũng xuất hiện, như tại thôn Đông xã Trà Sơn.

Tình trạng sử dụng quỹ đất ở Trà Bồng năm 2005 như sau: 1) Đất nông nghiệp 5.308ha (cây hàng năm 3.942ha); 2) Đất lâm nghiệp 30.338ha; 3) Đất chuyên dùng 337ha; 4) Đất khu dân cư 195ha; 5) Đất chưa sử dụng 5.698ha.

Về dân cư, cư dân ở Trà Bồng chủ yếu là người Cor, người Việt. Người Cor sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy, trồng quế, bắp, săn bắn, hái lượm, chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm. Xã hội Cor xưa kia ở vào thời kỳ tiền giai cấp, tính cố kết cộng đồng cao, sống hiền hòa, cần cù nhẫn nại, có nhiều giá trị văn hóa cổ truyền đặc sắc. Người Việt cư trú chủ yếu ở các xã Trà Phú, Trà Bình và thị trấn Trà Xuân phía đông huyện, ven trục lộ giao thông, chủ yếu làm ruộng nước và buôn bán, làm nghề thủ công, và có sự giao lưu với văn hóa Cor. Ngoài ra, còn có người Hrê chủ yếu sống ở xã Trà Tân. Người Cor, người Việt, người Hrê ở Trà Bồng có truyền thống đoàn kết, có sự giao lưu buôn bán lâu đời và có truyền thống yêu nước khá nổi bật.

Trong số dân hơn 29.000 người ở Trà Bồng có trên 10.000 người Cor, trên 18.000 người Việt, trên 200 người Hrê. Số người Việt đông nhất là ở thị trấn Trà Xuân (trên 7.000 người), kế đến là các xã Trà Bình, Trà Phú (toàn bộ số dân của 2 xã này). Người Cor sống đều khắp ở các xã còn lại.

Sự phân bố dân cư theo từng xã, thị trấn thời điểm 2005 như sau(2):

TT

Xã, thị trấn

Diện tích
(km2)

Dân số
(người)

Mật độ dân số (người/km2)

1

Trà Xuân

6,09

7.380

1.212

2

Trà Giang

36,50

395

11

3

Trà Thủy

75,48

2.443

32

4

Trà Hiệp

49,00

1.645

34

5

Trà Phú

15,68

4.162

265

6

Trà Tân

70,75

1.575

22

7

Trà Sơn

56,49

4.094

72

8

Trà Lâm

34,61

1.595

46

9

Trà Bình

22,18

4.796

216

10

Trà Bùi

51,28

1.316

26

 

Toàn huyện

418,75

29.401

70

Thống kê trên cho thấy thị trấn Trà Xuân có số dân cao tuyệt đối và mật độ dân số cũng cao tuyệt đối, trong khi diện tích thấp tuyệt đối. Rộng nhất là xã Trà Thủy. Dân số và mật độ thấp tuyệt đối là xã Trà Giang. Các xã có người Việt sống tập trung là Trà Bình, Trà Phú, dân số và mật độ dân số cao hơn hẳn so với các xã khác.

*
*          *

Nổi bật trong truyền thống yêu nước của người Cor ở Trà Bồng là sự tham gia phong trào "Nước Xu đỏ" từ năm 1938 và tiếp tục chống Pháp cho đến Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Năm 1938, bốn già làng có uy tín nhất của dân tộc Cor là ông Gia, ông Chân, ông Phú, ông Tài đã kêu gọi nhân dân quanh vùng đứng lên chống thực dân Pháp bắt xâu, thu thuế. Họ chỉ huy bốn đội nghĩa quân trang bị vũ khí thô sơ kéo về tấn công châu lỵ Trà Bồng nhưng bị thất bại, nhiều người hy sinh. Dân các làng buộc phải quay về chịu xâu, thuế như cũ. Các thủ lĩnh, dẫn đầu là ông Gia, ông Tài, cùng dân của hàng chục làng kéo nhau lên Cà Đam, lên đầu nguồn sông Tang xây dựng căn cứ để chiến đấu lâu dài. Nghĩa quân đã gây cho Pháp nhiều thiệt hại, đã đánh trận Gò Rô nổi tiếng (tháng 1.1939). Năm 1942, nhân lúc giặc Pháp đưa quân lên đánh vùng cao, nghĩa quân lại kéo xuống tấn công châu lỵ Trà Bồng, nhưng lại bị thất bại. Pháp tăng cường đánh phá lên căn cứ và dụ dỗ, mua chuộc. Các thủ lĩnh và dân các làng cương quyết cố thủ trong căn cứ cho mãi đến tháng Tám 1945. Khi được biết Việt Minh đang lãnh đạo nhân dân giành chính quyền ở châu lỵ Trà Bồng, nghĩa quân kéo về tham gia. Ông Gia (lúc này đã 90 tuổi) được cử làm Chủ tịch Trà Bồng.

Các xã ở phía đông huyện thuộc địa bàn cư trú của người Việt, hình thành tổ chức cơ sở Đảng từ năm 1930 và liên tục đấu tranh góp phần vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trà Bồng trong kháng chiến chống Pháp là căn cứ địa vững chắc của cách mạng, giữ vững tự do và đóng góp sức người, sức của vào công cuộc đánh thắng quân Pháp xâm lược.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trà Bồng là căn cứ địa đầu tiên của tỉnh Quảng Ngãi. Cũng tại Gò Rô, ngày 7.7.1958, Đại hội nhân dân 4 dân tộc: Cor, Hrê, Ca Dong, Kinh thể hiện quyết tâm đánh Mỹ, được mệnh danh là đại hội "Diên Hồng" của nhân dân các dân tộc miền Tây Quảng Ngãi. Trà Bồng là nơi khởi phát cuộc Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi 28.8.1959, một trong những cuộc đồng khởi nổi bật nhất ở miền Nam Việt Nam thời ấy. Sau cuộc khởi nghĩa, nhiều vùng nông thôn đã được giải phóng, các ủy ban tự quản xã ra đời. Nhân dân Trà Bồng đã bẻ gãy các cuộc phản kích, đánh phá của kẻ địch để giữ vững vùng giải phóng và đóng góp nhiều nhân tài vật lực cho cuộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Trà Bồng được giải phóng hoàn toàn ngày 18.3.1975.

Quân và dân Trà Bồng, quân và dân các xã Trà Sơn, Trà Tân, Trà Bùi, Trà Lâm, Trà Hiệp được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân. Có 12 bà mẹ được phong tặng danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.

*
*          *

Kinh tế Trà Bồng nhìn chung còn chậm phát triển. Hoạt động kinh tế của nhân dân Trà Bồng chủ yếu là nông, lâm nghiệp. Công, thương nghiệp và dịch vụ cũng dần dần phát triển theo thời gian. Năm 2004, tỉ trọng ngành nông, lâm nghiệp là 55%; các hoạt động công, thương nghiệp, dịch vụ đã tăng lên 45% tổng giá trị. Tuy nhiên, tỉ lệ trên chưa phản ánh thật rõ sự phát triển, vì giá trị sản xuất nông nghiệp tương đối thấp, trong khi đa số dân vẫn sống bằng nông nghiệp. Tính ở thời điểm 2005, số dân sống bằng nông, lâm nghiệp là 27.028 người với 5.568 hộ và 13.389 lao động. Trong khi số dân sống bằng nghề khác là 2.551 người với 922 hộ và 2.928 lao động.

Về nông nghiệp, các tài liệu cổ cho thấy nông nghiệp ở Trà Bồng xưa cũng có một số điểm đáng chú ý. Tập Quảng Ngãi tỉnh chí của Nguyễn Bá Trác và các tác giả in trên Nam phong tạp chí (1933) có ghi ở thời điểm ấy, Trà Bồng (gồm cả huyện Tây Trà ngày nay) có 1.282 mẫu ruộng (461,52ha), thu hoạch được 228 tấn lúa mỗi năm. Có thể hiểu số ruộng này phần lớn nằm ở vùng thấp của huyện và phần nhiều do người Việt canh tác. Ngoài ra, không thấy ghi chép về loại cây trồng khác. Về chăn nuôi, các tác giả Quảng Ngãi tỉnh chí ghi ở Trà Bồng có nuôi 88 con trâu, 20 con bò, 4 con ngựa, 871 con heo, 4.121 con gà, song các tác giả cũng nhấn mạnh các số liệu ấy cũng chỉ "phỏng chừng mà kê" nên độ chính xác chắc chắn không cao. Trải qua hai cuộc kháng chiến, nông nghiệp ở Trà Bồng chưa có điều kiện phát triển. Từ sau năm 1975, sản xuất nông nghiệp mới thực sự chuyển biến. Tính ở thời điểm 2005, giá trị sản xuất nông nghiệp ở Trà Bồng là 52,743 tỷ đồng, trong đó trồng trọt 31,06 tỷ đồng, chăn nuôi 21,128 tỷ đồng. Do đặc điểm tự nhiên và tập quán canh tác mà nông nghiệp Trà Bồng có thể phân ra hai vùng khá rõ rệt: nông nghiệp ở ba xã, thị trấn vùng thấp với đa số người Việt và nông nghiệp ở 7 xã vùng cao với đa số đồng bào Cor. Ba xã, thị trấn với đa số người Việt sinh sống ở phía đông huyện làm nông theo kiểu canh tác của miền xuôi, trồng lúa nước và các loại cây hoa màu, cây lương thực, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ba xã, thị trấn này tuy không rộng lắm nhưng nhờ kinh nghiệm thâm canh lúa nước, nên là nguồn lương thực quan trọng của huyện, chủ yếu là lúa gạo. Thống kê cho thấy, trong tổng sản lượng lương thực toàn huyện Trà Bồng năm 2005 là 7.020 tấn thì tổng lượng lương thực của 3 xã, thị trấn vùng thấp đã có 4.031 tấn (xã Trà Bình 1.864 tấn, xã Trà Phú 1.135 tấn, thị trấn Trà Xuân 1.032 tấn). Tuy nhiên, do vùng thấp tập trung dân số với mật độ cao, nên bình quân lương thực đầu người lại không phải cao nhất trong huyện, trừ xã Trà Bình đạt 388kg/người/năm (đứng thứ hai sau xã Trà Giang 463kg), thì ở xã Trà Phú chỉ 273kg, ở thị trấn Trà Xuân thì thuộc hạng thấp nhất trong huyện (140kg). Bảy xã vùng cao nơi người Cor chiếm đa số, do điều kiện thiên nhiên với nhiều thung lũng hẹp nên từ xưa không có truyền thống trồng lúa nước như vùng người HrêSơn Hà, Minh Long, Ba Tơ. Để có lương thực, xưa kia người Cor chủ yếu tỉa lúa rẫy, tỉa bắp, trồng bo bo… đều ở trên rẫy. Từ khi có chính quyền cách mạng, người Cor dần chuyển cư xuống thấp và bắt đầu có sự khai hoang làm ruộng nước. Xưa kia việc chăn nuôi gia súc như trâu, heo cũng rất khó, vì vùng rừng núi Trà Bồng có rất nhiều thú dữ như voi, hổ. Qua các thời kỳ cách mạng, canh tác nông nghiệp ở Trà Bồng mới dần dần có sự chuyển biến. Người Cor sinh hoạt kinh tế nông, lâm nghiệp theo lối cổ truyền, có thêm các nhân tố mới nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, trong đó có cả dấu ấn của kinh tế nông nghiệp sơ khai. Người Cor ngày nay, bên cạnh việc khai hoang trồng lúa nước với kỹ thuật mới, vẫn thường xuyên trồng và khai thác quế như xưa, phát nương làm rẫy tỉa lúa, ngô, nuôi trâu, gà, vịt ở làng, đi rừng hái rau ranh, bắt ốc, khai thác mật ong, đót, các loại cây, dây rừng để về làm đồ dùng, thức ăn và bán lấy tiền. Sản vật ở rừng có nhiều, nhưng ngon nhất là ốc đá, rau ranh và mật ong hoa quế.

Theo thống kê, tổng sản lượng lương thực có hạt của Trà Bồng năm 2004 trên 6.368 tấn, bình quân lương thực đầu người gần 219,7kg; sản lượng lương thực năm 2005 là 6.985 tấn, bình quân lương thực đầu người là 238,3kg(3), những con số còn quá thấp so với nhiều nơi trong tỉnh Quảng Ngãi, nhưng là một tiến triển khá cao trong điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc trồng cây lương thực.

Thống kê sau đây sẽ cho thấy sự tiến triển ấy(4): 

Năm

1975

1980

1985

1990

1995

2000

2005

Bình quân lương thực đầu người (kg)

73,1

134,2

159,1

129,1

107,6

163,5

238,3

 
Sự tăng đột biến của 2 con số năm 2000 và 2005 có nguyên nhân từ việc chia tách huyện Tây Trà (vùng có rất ít diện tích lúa nước), nhưng nhìn trên đại thể từ 1975 đến 2005, có thể thấy sự tăng tiến trong sản xuất lương thực.

Tính ở thời điểm 2005, sản lượng lương thực bình quân đầu người cao nhất là ở xã Trà Giang 463kg, xã Trà Bình 388kg, xã Trà Thủy 330kg, thấp nhất là xã Trà Bùi 135kg, thị trấn Trà Xuân 140kg, các xã khác xê dịch trong khoảng 200 đến 300kg.

Bên cạnh cây lương thực có hạt, ở Trà Bồng còn trồng nhiều khoai, sắn. Sau đây là thống kê về các loại cây trồng chính ở Trà Bồng năm 2005(5): 

TT

Cây trồng

Diện tích (ha)

Năng suất (tạ/ha)

Sản lượng (tấn)

1

Lúa

2051

30,8

6.311

2

Ngô

312

21,6

674

3

Sắn

2.312

79

18.262

4

Lạc

155

13,7

212

5

Mía

194

433,4

8.408

6

Đậu các loại

111

9,6

107

7

Rau các loại

215

153,3

3297

 

Lúa trồng nhiều nhất ở xã Trà Bình với diện tích 510ha, sản lượng 1.751 tấn. Năng suất lúa cao nhất ở thị trấn Trà Xuân với 40,36 tạ/ha, kế đó là xã Trà Phú 37,21 tạ/ha, thấp nhất ở xã Trà Lâm 19,42 tạ/ha.

Ngô trồng nhiều nhất ở xã Trà Sơn với diện tích 94ha, sản lượng 190 tấn; tiếp đó là xã Trà Bình với diện tích 45ha, sản lượng 113 tấn; xã Trà Thủy với diện tích 41ha, sản lượng 91 tấn.

Sắn toàn huyện có diện tích khá lớn, trong đó có diện tích sắn lớn nhất là xã Trà Bình với 495ha, xã Trà Tân với 415ha, nhưng sản lượng sắn cao nhất lại là xã Trà Phú với 5.076 tấn.

Lạc trồng nhiều nhất là ở xã Trà Bình với diện tích 120ha, sản lượng 174 tấn; xã Trà Phú 21ha, sản lượng 31 tấn; thị trấn Trà Xuân 9ha, sản lượng 12 tấn. Các xã khác không có.

Mía cũng tập trung ở ba xã, thị trấn vùng thấp, trong đó tập trung ở xã Trà Bình với diện tích 128ha, sản lượng 5.760 tấn mía cây, chiếm khoảng 2/3 về diện tích và sản lượng mía toàn huyện.

Đậu các loại với diện tích ít ỏi phân bố đều khắp các xã, thị trấn.

Rau các loại trồng nhiều nhất ở xã Trà Phú với diện tích 75ha, sản lượng 1.019 tấn, thị trấn Trà Xuân với 46ha, sản lượng 632 tấn.

Về thủy lợi, tổng diện tích tưới nước bằng công trình thủy lợi có 516,4ha, trong đó tưới bằng công trình kiên cố có 421,4ha (năm 2004).

Các loại gia súc, gia cầm ở Trà Bồng phổ biến là bò, trâu, heo, gà, vịt. Tình hình chăn nuôi vẫn chưa ở mức cao, như số liệu của năm 2004 cho thấy: toàn huyện có 59 con trâu, 6.687 con bò, 14.611 con heo và trên 59.000 gia cầm. Năm 2005, Trà Bồng có 74 con trâu, 7.670 con bò, 15.249 con heo. Các xã Trà Giang, Trà Phú, Trà Bùi không có trâu. Các xã khác có tối đa 22 con trâu. Trong tổng số 7.670 con bò trong toàn huyện, các xã, thị trấn vùng thấp có đến 5.589 con, chiếm tỷ lệ trên 2/3, cụ thể xã Trà Bình có 2.385 con, xã Trà Phú 1.926 con, thị trấn Trà Xuân 1.278 con, các xã còn lại đều có từ 600 con trở xuống. Các xã có số lợn trên 2 tháng tuổi từ 1.000 con trở lên gồm: xã Trà Phú 2.930 con, xã Trà Bình 2.855 con, thị trấn Trà Xuân 2.827 con, xã Trà Thủy 1.700 con, xã Trà Sơn 1.550 con, xã Trà Hiệp 1.411 con. Các xã khác chỉ có từ 700 con trở xuống.

Về lâm nghiệp, thuở xưa vùng Trà Bồng nổi tiếng với loại cây trồng đặc chủng là cây quế, thường được gọi là quế Quảng. Bên cạnh một ít quế rừng mọc tự nhiên, người Cor chuyên việc trồng quế trên rẫy, thành rừng. Nhiều thương nhân người Việt đã lên các làng người Cor để mua quế về xuôi bán lại cho người Hoa xuất khẩu. Thời nhà Nguyễn, hằng năm các vua Nguyễn đều cho đặt mua quế Trà Bồng. Người dân Cor bóc vỏ quế bán để mua về các vật dụng thiết yếu. Quế được trồng bổ sung hằng năm. Ngoài việc trồng quế, hoạt động lâm nghiệp của người Cor chủ yếu là khai thác sản vật ở rừng. Trải qua quá trình khai thác và qua hai cuộc chiến tranh, rừng Trà Bồng bị tàn phá nặng, trong khi đồng bào dân tộc Cor vẫn dựa vào việc khai thác lâm thổ sản như một nguồn bổ sung quan trọng cho cuộc sống, thì đối với chính quyền địa phương, việc bảo vệ, khoanh nuôi, trồng rừng phòng hộ, rừng nguyên liệu... là nhiệm vụ quan trọng và cũng là sự tạo môi trường thuận lợi, hỗ trợ cuộc sống cho nhân dân. Việc khai thác chủ yếu tập trung vào gỗ rừng trồng như keo, bạch đàn, các loại cây thiên nhiên như tre, nứa, lồ ô, mây, đót khô. Riêng vỏ quế xô hằng năm khai thác vài trăm tấn. Diện tích trồng quế tính ở thời điểm năm 2004 có 3.387ha. Việc trồng và khai thác quế trong hàng chục năm trở lại đây đã suy giảm, nằm ở mức thấp, vì giá quế trên thị trường xuống rất thấp. Đây là một vấn đề khá nan giải cho vùng đất quế Trà Bồng. Bà con dân tộc Cor vốn trông cậy nhiều ở cây quế và điều kiện, địa hình, khí hậu ở đây không dễ chuyển đổi sang cây trồng khác. Cây keo lai đang được trồng khá nhiều.

Về tiểu thủ công nghiệp, ở Trà Bồng chủ yếu vẫn là các nghề thủ công mang tính tự túc, tự cấp của người Cor, trong đó chủ yếu là đan lát các vật dụng dùng cho sinh hoạt và sản xuất như gùi các loại, chiếu nằm, chiếu phơi lúa, mủng, giỏ nhốt gà... với những nét đan lát khá tinh xảo. Vật liệu đan chủ yếu dùng mây, cây lùng, nứa. Nghề thủ công của người Kinh thì chủ yếu là các nghề thông dụng như hồ, mộc, làm gạch ngói, rèn, khai thác đá. Từ sau năm 1975, ở Trà Bồng còn có thêm nghề sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ từ vỏ quế, như bình ly, ống đựng tăm, quả bánh bằng vỏ quế già (quế tam sơn), nhưng việc tiêu thụ chưa nhiều. Suối Thạch Bích tại xã Trà Bình đã được Nhà máy nước khoáng của Công ty đường Quảng Ngãi khai thác và đóng chai với thương hiệu cùng tên, là một sản phẩm rất được ưa chuộng trên thị trường. Thống kê cho biết năm 2005, Trà Bồng có 235 cơ sở sản xuất công nghiệp cá thể với 308 lao động, tập trung ở thị trấn Trà Xuân, xã Trà Bình, xã Trà Phú, xã Trà Sơn và xã Trà Tân. Công nghiệp Trà Bồng chủ yếu tập trung ở việc chế biến thực phẩm, may mặc, sản phẩm gỗ, tre nứa. Giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn là 4,547 tỷ đồng theo giá hiện hành năm 2005.

Mặc dù cho đến trước Cách mạng tháng Tám 1945 đồng bào dân tộc Cor ở Trà Bồng vẫn trong trạng thái kinh tế - xã hội thời tiền giai cấp, nhưng đã có giao thương xuôi ngược với người Việt, người Hoa từ rất sớm. Chợ Thạch An nằm ở phía tây huyện Bình Sơn là một điểm giao thương khá sầm uất từ nguồn về biển. Người Cor mang quế đến bán, mua về nồi, niêu, cồng, chiêng, chè, vải, muối, gạo, rìu, rựa... tức những vật dụng thiết yếu cho sinh hoạt và sản xuất. Cũng rất phổ biến là các thương nhân người Việt mang cõng lên các làng nóc nằm ở lưng chừng các núi để thực hiện việc buôn bán tại chỗ. Từ sau năm 1975, các hình thức buôn bán như vậy vẫn rất thường thấy. Tuy nhiên, các điểm thương mại, dịch vụ, các chợ đã dần được xây dựng ở các xã, ở huyện lỵ, đã trở thành nơi tập trung buôn bán của đồng bào các dân tộc tại Trà Bồng. Chợ Trà Bồng ở trung tâm thị trấn Trà Xuân và các cửa hiệu ở xung quanh ngày càng buôn bán sầm uất. Ở các thôn, làng của đồng bào Cor, thông thường mỗi nơi có một vài tiệm bán tạp hóa với các mặt hàng thiết yếu, do người Việt đảm nhiệm. Thống kê cho biết trong trong địa hạt Trà Bồng năm 2005 có 805 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ cá thể với tổng cộng 871 lao động, phân bố rải rác trong huyện, nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là ở Trà Xuân, Trà Phú, Trà Bình.

Cơ sở hạ tầng ở Trà Bồng đã có sự phát triển khá. Từ nhiều trăm năm trước, đường từ miền xuôi lên nguồn Trà Bồng đã có, nhưng chỉ là đường đất. Trà Bồng được xem là vùng rừng thiêng nước độc, xa xôi hiểm trở. Châu lỵ Trà Bồng trước Cách mạng tháng Tám 1945 tuy đã có nhưng còn sơ sài, chỉ có đồn binh và nhà cửa của quan cai trị. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cứu nước, đường sá có phần được cải thiện hơn trước.

Cuối thập niên năm mươi của thế kỷ XX, vợ cố vấn Ngô Đình Nhu là Trần Lệ Xuân ra lệnh cho cấp dưới làm đường ở địa hạt Trà Bồng để độc quyền khai thác, buôn bán quế. Đường rừng đi Trà Phong, đường nước đi dọc các xã Trà Thuỷ, Trà Hiệp qua huyện Trà My (tỉnh Quảng Nam) có xây cầu cống, tu sửa, cầu bắc qua sông Trà Bồng được xây dựng, năm 1964 bị trận lũ lớn cuốn trôi (đến năm 2005 xây dựng lại). Tuy nhiên phải đến sau 1975, đường sá mới thật sự chuyển biến. Tỉnh lộ 622 từ Châu Ổ (huyện Bình Sơn) nối với huyện lỵ Trà Bồng đã được trải nhựa. Đường Trà Bồng - Trà Phong (huyện lỵ Tây Trà) được xây dựng, trải nhựa. Hiện nay, đoạn tỉnh lộ 622 từ thị trấn Trà Xuân qua cầu men theo tả ngạn sông Trà Bồng dẫn đến Trà My đã có kế hoạch xây dựng, nâng cấp. Đường huyết mạch từ Trà Tân đi Trà Bùi đang được xây dựng. Các con đường nối các xã dần dần đã được bêtông hóa.

Về thông tin liên lạc, ở huyện lỵ Trà Bồng có bưu điện huyện, ở các xã có nhà bưu điện văn hóa xã. Số máy điện thoại cố định năm 2004 là 1.265 máy, năm 2005 là 1.650 máy.

Sự chuyển biến rõ nhất là ở điện lực. Xưa kia, Trà Bồng không có điện, ở người Việt, việc thắp sáng chủ yếu dựa vào dầu thực vật như dầu dừa, dầu phụng, sáp ong và dầu hoả; còn ở người Cor thì chủ yếu nhờ lửa củi. Từ năm 1990, thuỷ điện Cà Đú với công suất 400kW được xây dựng đưa điện về thắp sáng huyện lỵ. Năm 1995, lưới điện quốc gia kéo về huyện lỵ và các xã. Năm 2004, số hộ dùng điện là 4.672 hộ, chiếm 75% tổng số hộ trong toàn huyện. Điện kéo về đã góp phần làm biến đổi lớn chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp dân cư, nhất là khi các phương tiện nghe nhìn, truyền thông đại chúng ngày càng lan rộng.

Các cơ sở công cộng, như cơ quan, trạm y tế được xây dựng ngày càng khang trang. Ở các xã người Việt, đa số nhà ở đã được ngói hóa. Ở các làng người Cor, nhiều người đã làm được nhà ngói, có làng đã ngói hóa hoàn toàn như thôn 2 xã Trà Thủy. Tuy vậy, nhìn chung đời sống của nhân dân còn quá thấp là một trở ngại trên con đường phát triển.

*
*          *

Điểm nổi bật trong văn hóa ở Trà Bồng là các di sản văn hóa cổ truyền và các hoạt động văn hóa mới. Ở dân tộc Cor, di sản văn hóa khá phong phú. Trà Bồng là địa bàn cư trú chính của dân tộc Cor. Nơi đây, người dân vẫn bảo tồn được các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể quý báu. Người Cor vốn có tín ngưỡng nguyên thuỷ vạn vật hữu linh. Trong di sản văn hóa dân tộc Cor có truyện cổ tích (đã phần nào được sưu tầm, dịch thuật và xuất bản), có các làn điệu dân ca như xà-ru, a-giới, cà-lu, a-rợp... Người Cor thích đánh chiêng và có nhiều giai điệu chiêng đặc sắc. Lễ hội của người Cor thì có lễ ăn lúa mới, làm nhà mới; đặc sắc có lễ cưới, lễ hội ăn trâu rất đậm màu sắc dân tộc. Trong lễ ăn trâu có cây nêu và cái gu, các bái vật hết sức độc đáo. Cây nêu của dân tộc Cor được dựng khá cao, với nhiều nét hoa văn, đan, khắc tinh xảo, có hình tượng chim chèo bẻo trên đầu nêu, thể hiện quan niệm thẩm mỹ và bàn tay khéo léo của các nghệ nhân Cor. Riêng bộ gu thờ treo trong nhà là di sản riêng có của dân tộc Cor, không thể tìm thấy ở các dân tộc khác. Gu thờ có gu pi treo giữa nhà, có con chim đại bàng lớn được khắc vạch các hoa văn đỏ, trắng trên nền đen. Gu dẹt hay các la vang treo ở cửa ra vào, cửa xuống bếp và gu treo ở bếp. Trên các la vang là cả một bức tranh liên hoàn, trong đó có vẽ các hình ảnh, hoa lá, sinh hoạt rất đặc thù. Người Cor còn giỏi nghề đan. Những sản phẩm đồ đan của người Cor thật sự là những tác phẩm nghệ thuật, tinh xảo, đẹp mắt. Những kinh nghiệm về trồng, chế biến, khai thác quế, kinh nghiệm về chữa bệnh... cũng là những tri thức dân gian quý báu. Về di sản văn hóa Việt ở Trà Bồng, có thể kể đến những bài ca dao, các điệu hát còn lưu truyền ở những người già. Điều đáng lưu ý là có sự giao thoa văn hóa giữa người Việt và người Cor ở Trà Bồng khá đậm nét: người Cor có bộ lễ phục áo dài vốn là sản phẩm của miền xuôi. Ở điện Trường Bà (thị trấn Trà Xuân), người Cor, người Việt đều tới cúng lễ. Đền thờ hổ ở xã Trà Hiệp cũng là một biểu tượng của giao thoa văn hóa Việt - Cor. Bên cạnh đó, di sản thiên nhiên ở Trà Bồng cũng rất quý, như các suối thác, đồi núi hùng vĩ và nên thơ, nổi tiếng như thác Cà Đú, thác Xăng Bay, suối Nước Nun, suối Trà Cân, suối Nang, núi Răng Cưa... Di tích thì có điện Trường Bà, các điểm di tích chung quanh cuộc Khởi nghĩa Trà Bồng và miền Tây Quảng Ngãi. Từ 1999, Nhà Bảo tàng Khởi nghĩa Trà Bồng đã được xây dựng, trưng bày các hình ảnh, hiện vật dân tộc học và về cuộc khởi nghĩa. Đó là những di sản văn hóa quý báu, có khả năng thu hút khách tham quan du lịch.

Trong các hoạt động văn hóa hiện nay, các di sản văn hóa cổ truyền đã được chú ý khai thác, phát huy. Đó là các cuộc liên hoan cồng chiêng, thi trang phục dân tộc, hội diễn ca múa nhạc dân tộc, thi hát dân ca... từ phong trào văn nghệ quần chúng ở huyện, ở tỉnh. Đồng thời, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa cũng được quan tâm. Có thể lấy mốc Cách mạng tháng Tám 1945 là thời điểm dân tộc Cor ở Trà Bồng bước vào nếp sống hiện đại. Tuy nhiên, do phải trải qua hai cuộc chiến tranh, đồng bào Cor chủ yếu vẫn sống theo nếp cũ. Chỉ đến sau năm 1975, đồng bào mới từ các sườn núi cao xuống thấp, định cư ở các thung lũng, bãi bỏ các tập tục lạc hậu và xây dựng đời sống mới. Vừa kế thừa các tinh hoa văn hóa cổ truyền, vừa tiếp thu văn hóa mới là nét nổi bật trong văn hóa các dân tộc ở Trà Bồng ngày nay. Các sinh hoạt thể thao quần chúng dần dần thâm nhập trong đời sống ở nhiều làng xã. Ở huyện có đài truyền thanh và trạm phát lại truyền hình, ở xã có đài truyền thanh xã. Sinh hoạt văn hóa của đồng bào các dân tộc ở Trà Bồng đã được cải thiện, nâng cao hơn nhiều so với trước kia.

Về giáo dục, xưa kia, việc học dường như chỉ hạn chế ở đồng bào Việt và trong đồng bào Việt cũng chỉ có một số ít con nhà khá giả được học. Đa số dân Việt và dân Cor đều mù chữ. Trải qua thời gian và các cuộc chiến tranh với rất nhiều gian khó, việc học ở Trà Bồng ngày nay đã thực sự phát triển. Giáo dục ở Trà Bồng dần dần tiến bộ và đã đi vào nề nếp. Đến 2005, Trà Bồng có tổng số 16 trường học, trong đó có 1 trường Trung học phổ thông, 10 trường Trung học cơ sở, 11 trường Tiểu học; có 3.875 học sinh Tiểu học với 144 lớp, 2.879 học sinh Trung học cơ sở với 81 lớp, 1.780 học sinh Trung học phổ thông với 39 lớp. Hệ mẫu giáo có 11 trường, 45 lớp với 1.892 học sinh. Nhiều người dân tộc Cor học lên bậc Đại học. Một số gia đình người Việt đã nuôi con học đến Tiến sĩ. Tuy vậy, do đời sống khó khăn nên số học sinh bỏ học, nhất là ở dân tộc Cor vẫn còn cao.

Chăm sóc sức khoẻ là một vấn đề được quan tâm ở Trà Bồng. Xưa kia, người Việt, người Cor chữa bệnh chủ yếu dựa vào kinh nghiệm dân gian từ nhiều đời truyền lại. Từ sau 1975, bệnh xá huyện được xây dựng. Hệ thống y tế gồm Trung tâm y tế huyện, đội vệ sinh phòng dịch và 10 trạm y tế ở 10 xã, thị trấn. Việc chăm sóc sức khoẻ, phòng và chữa bệnh ngày càng được tốt hơn. Bệnh viện huyện có 100 giường bệnh. Số cán bộ y tế có 83 người, trong đó có 9 bác sĩ, 1 dược sĩ đại học, riêng trạm y tế xã chỉ mới ở Trà Hiệp có bác sĩ. Đồng bào Cor đã cơ bản bãi bỏ việc cúng chữa bệnh. Việc ăn ở vệ sinh, dùng thuốc chữa bệnh đã trở thành phổ biến trong nhân dân.

Về các vấn đề xã hội: Nguồn lao động ở Trà Bồng ngày càng tăng lên về số lượng và có sự cải thiện đáng kể về chất lượng. Mỗi năm, số lượng lao động tăng bình quân khoảng 4,5 - 5%. Chất lượng lao động cũng có tăng lên, nhờ nhiều người có học vấn cao hơn, được đào tạo ngành nghề. Với đà phát triển kinh tế, mỗi năm trên địa bàn huyện giải quyết được khoảng 400 - 500 việc làm cho người lao động. Tuy vậy, việc làm, đói nghèo vẫn là vấn đề lớn ở Trà Bồng. Thống kê năm 2005 cho biết toàn huyện có 16.317 lao động, trong đó số người trong độ tuổi lao động không làm việc là 417 người, số người trong độ tuổi có khả năng lao động không có việc làm là 589 người. Số người ngoài tuổi lao động có tham gia lao động cũng khá cao với 2.254 người (1.126 người già, 1.128 trẻ em). Nhà nước đã thực hiện trợ giá, trợ cước và phát không một số mặt hàng cho đồng bào vùng cao. Số hộ nghèo ở Trà Bồng có giảm đi, nhưng tỷ lệ vẫn còn cao.


(1) Theo Niên giám Thống kê tỉnh Quảng Ngãi 2005.
(2) Nguồn: Niên giám thống kê huyện Trà Bồng. Tổng số dân theo Niên giám thống kê huyện Trà Bồng có khác chút ít so với Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi.
(3), (5) Theo Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi, các số liệu này có chênh lệch nhưng không đáng kể so với Niên giám thống kê huyện Trà Bồng.
(4) Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi.
 

Về Đầu trang